Nguồn Gốc Của Kinh Dịch
Viết tiếp về Liên Sơn dịch, Quy Tàng Dịch, Chu Dịch:
Sĩ tử thời xưa đi học thì đầu tiên là học sách Tam tự kinh để biết tổng quan về các kiến thức và tư tưởng xuyên suốt qua các thời kỳ lịch sử phát triển xã hội cũ. Nội dung trong đó có đoạn nói như sau để biết về 6 loại kinh sách, mà có nhắc tới 3 loại kinh dịch phổ biến thời xưa: " hiệu lục kinh, đương giảng cầu, hữu liên sơn, hữu quy tàng, hữu chu dịch, tam dịch tường, hữu điển mô, hữu huấn cáo, hữu thệ mệnh, thư chi áo..." ý nói : người học trò phải học hiểu lục kinh, trong đó có nói đến 3 loại kinh dịch đó là " Liên sơn dịch, quy tàng dịch và chu dịch". Vậy ta bàn đến từng loại sách này được xuất hiện vào giai đoạn nào của lịch sử:
Thời Cực Lạc có Liên sơn Dịch thịnh hành do cụ Đế Hoà người phương nam là người hoàn thiện và phát triển nó tới tầm đỉnh cao của trí tuệ, khiến cho bao kẻ thống trị phương bắc phải tìm mọi cách đoạt lấy cho bằng được. Cụ Đế Hoà viết ra binh thư, binh pháp đánh trận, viết sách Thái ất để lại cho đời sau nên bọn giặc phương bắc gọi là sách của người " Lạc Việt" hay còn gọi là " Lạc Thư " . Do tổ tiên chúng ta vẫn còn sống trên núi trồng lúa nương và chưa xuống đồng bằng khai phá thì gọi là "Liên Sơn Dịch" tức 2 quẻ cấn là núi liền núi, hết thảy bao la vạn tượng của vũ trụ đều được thống kê ghi lại trong Lạc Thư. Liên Sơn Dịch là coi trọng tới tượng quẻ cấn và lấy núi non làm chủ thể chi phối các hoạt động của xã hội thời bấy giờ. Tới thời con trai của cụ Đế Hoà gọi là Phục Hy ( Phục 伏có nghĩa là nằm, Hy 稀nghĩa là cây đa, ý nói Ngài Phủ Phục dưới gốc cây đa để tu luyện, thực ra cụ họ Nguyễn, Phục Hy chỉ là cách gọi khác về cụ) thì lấy 8 quẻ tiên thiên bát quái để diễn giải mọi hành động của xã hội thời bấy giờ. Quẻ càn là cha, khôn là mẹ, chấn trưởng nam, tốn trưởng nữ, khảm trung nam, ly trung nữ, cấn thiếu nam đoài thiếu nữ. Đến thời con của Cụ Phục Hy là Đế Khôi thì Việt Nam ta có nhiều người tài xuất hiện vào giai đoạn này. Tiêu biểu là ngài Lão Long Cát, Hữu Sào, Toại Nhân đã kế thừa truyền thống tri thức của tổ tiên, do cụ Phục Hy truyền lại. Khi cụ Phục Hy mất thì con của ngài là Đế Khôi vẫn còn rất trẻ nên đã bị kẻ ngoại tộc tên là Hiên Viên tạo phản bắt đi và giết hại ngài bên Thiểm Tây ngày nay. Hiên Viên vì mục đích muốn học kinh thư của người Lạc Việt nên dùng khổ nhục kế muốn làm gia nô cho đế thất Phục Hy. Khi cụ Phục Hy mất là tạo phản rồi cướp kho sách quý đem đi và có bắt Đế Khôi làm con tin. Cụ phục Hy mất lấy phật hiệu là Di Đà vì thế ngày nay một số ngôi chùa ở Việt Nam mới có câu đối với nội dung như sau: "Phật hiệu di đà pháp giới tàng thân tuỳ xứ hiện. Quốc danh Cực Lạc thục quang chân cảnh cố trung huyền" tạm dịch nghĩa như sau: Phật hiệu là Di Đà, cõi phép giấu mình tuỳ nơi hiển hiện. Tên nước Cực Lạc sáng ngời cảnh thật, gốc gác quá diệu huyền.
Quy tàng dịch là khi con cháu của cụ Đế Khôi xuống khai phá đồng bằng, dạy muôn dân cấy cầy lúa nước. Thời đại này các vị đế vương trị vì phương nam (tính từ bờ nam sông Dương Tử xuống phía nam) đều gọi là Đế Thần ( tức các vị Thần Nông) sự thay đổi về nơi sinh sống là một bước ngoặt lịch sử của tổ tiên chúng ta. Gốc gác vốn trên núi đi xuống đồng bằng là cuộc đông tiến vĩ đại, gây dựng nền móng lớn lao cho hơn 2 nghìn năm, trăm đời vua Hùng có dư về sau. Do xuống đồng bằng nên coi trọng sông nước, lấy quẻ khôn là đất mềm là nơi bình địa làm chủ thể của xã hội thời bấy giờ, đây là cách giải thích hợp lý về sự biến dịch của người Lạc Việt. Quy tàng dịch chính là hệ quy chiếu phản ánh nền văn minh lúa nước sâu sắc, khác biệt với cư dân bên bờ bắc của sông Dương tử, họ trồng cao nương và lúa mì, du mục di cư nên tản mát khắp nơi mà không tập trung nên không có điều kiện giao thoa huyết thống giữa họ này với họ kia. Họ dùng chính sách nội tộc hôn, anh em chú bác có thể ngủ với nhau và cận huyết thống. Họ không sống tập trung nên không có văn hoá lễ hội cộng đồng. Hơn nữa phương bắc khí hậu lạnh nên cây cối thưa thớt, thức ăn thiếu thốn mà chỉ dựa vào nguồn gia súc chăn nuôi mà tồn tại, do ít thức ăn nên phải di chuyển theo diện rộng mới kiếm đủ thức ăn để sinh sống. Họ không có quan niệm về thiên văn địa lý sâu sắc như cư dân phương nam. Chỉ sau giai đoạn này khoảng 3000 năm thì Tần Thuỷ Hoàng vượt Dương Tử đánh nước Sở ( gốc người Việt di cư sang khai phá đồng bằng) và thu phục Bách việt thì mới bị văn hoá phương nam trinh phục ngược lại họ. Họ bị văn hoá cộng đồng sâu sắc của người phương nam đánh bại họ. Họ dần dần theo phong tục người nam. Người Hán là cách gọi sau này khi Lưu Bang cùng Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ liên kết diệt Tần. Khi đó Hạng Vũ phong hầu cho Lưu Bang là Hán Vương và cho cai quản đất Hán Trung. Sau này Lưu Bang quay lại cắn Hạng Vũ và diệt nước Sở, tự phong mình là Hán Đế, con cháu của họ sau này gọi là Hán Cao Tổ. Dân tộc Hán có từ đây và là dân tộc có sau Bách Việt.
Quay lại vấn đề quy tàng dịch. Bao nhiêu kinh nghiệm quý giá của tổ tiên người Việt tới cuối giai đoạn các vị vua Thần Nông thì phát triển đến đỉnh cao. Vào thời Cực Lạc Quốc có 9 họ gốc ban đầu ( Việt: Nguyễn Trần Dương Chu Vũ. Mường: Đinh Quách Bạch Hoàng) thì đến cuối thời kỳ các vị vua Thần Nông tiến hành chia ra hàng trăm họ. Lấy sản vật tiêu biểu của cư dân lúa nước đặt cho tên từng họ, ví dụ họ Lý là cây mận, Lê là cây dưa lê, Ngô là cây ngô, Đỗ là cây đậu, Dương là cây khế ( dương đào ), Phan là cây ổi ( phan thạch lựu ), Đào là cây đào, họ Đào thứ 2 là nghề gốm ( đào từ ), Lã là nghề đào giếng, Chu là nghề đóng thuyền bè, Phạm là nghề trồng cây thuốc...
Vua Thần Nông cuối cùng của Việt Nam thời bấy giờ sinh hạ được 2 vị Đế Vương, gọi là Đế Tiết và Đế Thừa. Cụ đế Tiết 2 vợ ( địa mẫu ) nhưng không có con trai kế vị. Nhường ngôi cho cháu là con của em trai ( Đế Thừa )
Đế Thừa cũng lấy 2 vợ ( địa mẫu ). Vợ cả ( chính thất ) sinh 2 trai sinh đôi : Nguyễn Minh Khiết ( Đế Minh ) Nguyễn Nghi Nhân ( Đế Nghi ). Cụ đế Nghi dẫn theo nhiều gia tộc tiến sang phương bắc lập ra nước Sở, hùng cứ một phương, gọi là bắc địa hầu tức ngài Bắc Đẩu.
Vợ 2 ( thứ thất ) sinh ra Nguyễn Long Cảnh ( Nam Công Long ) hay còn gọi là Nam Tào.
Cụ Đế Minh cai quản trung ương. 3 anh em là 3 vua nêm có chữ nho ghép 3 chữ vương này thành chữ quỷ. 3 vị này mở đầu cho giai đoạn Xích Quỷ Quốc, Xích là là Xích Đế, các vị vua cai trị phương nam. Quỷ là 3 chữ vương ghép thành mang ý nghĩa sâu sắc.
Đế minh lấy bà Đỗ Đoan Trang là con gái của Thần Long Đỗ ( Đỗ Thương ). Đỗ Đoan Trang gọi là mẫu đệ nhất của Việt Nam thời bấy giờ. Ngài sinh hạ ra Nguyễn Quảng tự Lộc Tục, hiệu Kinh Dương Vương. Cụ Nguyễn Quảng theo Đế Nghi tiến về phương bắc trinh chiến, đánh giặc Mô Mặc, cai quản 2 vùng đất giáp danh với Sông Dương Tử gọi là Kinh Châu và Dương Việt. Vua của Kinh Châu , Dương Việt thì gọi là " Kinh Châu Dương Việt Chi Vương, gọi tắt là Kinh Dương Vương.
